CÁCH GIẢI TRỪ OAN GIA
TRÁI CHỦ
Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật tu hành
không được thành tựu, không có biện pháp thoát khỏi luân hồi, là vì có oan gia
trái chủ đến gây phiền phức, làm ma chướng. Người không học Phật, không biết
hóa giải oán thù, vì vậy oan oan tương báo khổ không kham nổi. Người học Phật,
đối với tất cả chúng sanh bất luận họ đến đòi nợ hoặc trả nợ đều khuyên họ niệm
Phật, như vậy có thể chuyển tất cả thiện ác, oán thành Pháp duyên, nhân tình
thế gian cũng có thể chuyển thành Pháp quyến tu hành mới được thành tựu.
Mọi người đều có nghiệp chướng, nếu không có nghiệp chướng sẽ không phải sanh đến thế gian này. Làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng? Cổ đức khai thị rằng phương pháp tốt nhất là niệm Phật A-Mi-đà.
Để giúp các vị cư sĩ trong quá trình tu hành không bị chướng ngại, như lý như pháp, tiêu trừ nghiệp lực, cùng hội một thuyền, thuận qua bờ giác, dưới đây, tôi xin giới thiệu phương pháp tiêu trừ nghiệp lực của Trịnh Hạ Tường Sư Phụ như sau:
1. Đầu tiên khuyên dạy cách giải trừ oán thù.
Tôi tên (……………………………….), những oan gia trái chủ trên mình tôi (tức nghiệp lực, của một bộ phận nào trên thân thể) xin quý vị hãy nghe rõ, từ vô thủy kiếp đến nay, vì tôi bị mê hoặc trong thế giới Ta-bà, trong nhiều kiếp luân hồi, trong lúc vô ý đã làm tổn hại đến quý vị, khiến cho quý vị phải thọ vô lượng tội nghiệp trong lục đạo luân hồi, hứng chịu biết bao đau khổ, tăng thêm biết bao phiền não, Tôi thường cảm thấy tội chướng sâu nặng hối hận vô cùng. Tất cả đều do tôi mê hoặc vô tri tạo nên, đời này nhờ nguyện lực từ bi gia hộ của Phật, tôi được kết pháp duyên với Phật, tôi không quên quý vị, thành khẩn hi vọng quý vị cùng nhau học Phật, niệm Phật tu hành, tranh thủ sớm ngày tu thành chánh quả. Đồng thời hy vọng quý vị tha thứ cho tôi, đừng trả thù tôi, nếu quý vị nhất định muốn báo thù tôi, tôi cũng không có cách nào lẩn tránh, vì nhân đó là do tôi tạo ra, nên cũng phải chấp nhận quả báo, nhưng nếu như vậy đối với quý vị cũng không có lợi ích gì, chỉ khiến quý vị cảm thấy khoái lạc nhất thời, nhưng đến cùng quý vị không giải quyết được vấn đề căn bản, vì quý vị không những không tránh được sanh tử, cùng thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Tôi nhận thấy cách này tổn người lại không ích lợi gì cho chính mình, đối với hai bên chúng ta đều không tốt lành, vì vậy tôi thành khẩn hy vọng quý vị cùng tôi học Phật, niệm Phật hiệu A-mi-đà. Xin nghi nhớ chỉ cần quý vị thâu lại thân tâm, niệm thánh hiệu A-mi-đà, một niệm tương ưng, tu gì được nấy. Nhưng chúng tôi hy vọng quý vị đừng tu nhân thiên quả bảo, cố gắng tu tập, phát bồ đề tâm, nhất tâm chuyên niệm A-mi-đà Phật thánh hiệu, chỉ cần tu hành đúng pháp, tất nhiên đắc đạo tu thành chánh quả.
2. Quy y Tam Bảo cho oan gia trái chủ.
Tôi tên (……………………………), oan gia trái chủ trên thân tôi (tức nghiệp lực) quý vị hãy nghe rõ, quý vị không nghe Tam Bảo, không hiểu quy y, cho nên thọ khổ luân hồi. Nay tôi truyền thọ quy y Tam Bảo, quý vị phải lắng nghe, tôi niệm một lần, quý vị hãy theo tôi niệm một lần (phải niệm 3 lần):
Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Quy Y Phật, lưỡng túc tôn.
Quy Y Pháp, ly dục tôn,
Quy y Tăng, chúng trung tôn.
Quy Y Phật, không đọa địa ngục
Quy Y Pháp, không đọa ngạ quỷ
Quy Y Tăng, không đọa bàng sanh (súc sinh).
(Niệm 3 lần)
Lễ Quy Y viên mãn, bây giờ tôi vì quý vị niệm Thánh hiệu A-mi-đà Phật hai ngàn tiếng. Xin mời quý vị thâu lại thân tâm, cùng tôi chuyên tâm trì niệm Thánh hiệu A-mi-đà Phật.
3. Niệm xong thánh hiệu, vì oan gia trái chủ, tụng Tâm Kinh một lần.
Mọi người đều có nghiệp chướng, nếu không có nghiệp chướng sẽ không phải sanh đến thế gian này. Làm sao để tiêu trừ nghiệp chướng? Cổ đức khai thị rằng phương pháp tốt nhất là niệm Phật A-Mi-đà.
Để giúp các vị cư sĩ trong quá trình tu hành không bị chướng ngại, như lý như pháp, tiêu trừ nghiệp lực, cùng hội một thuyền, thuận qua bờ giác, dưới đây, tôi xin giới thiệu phương pháp tiêu trừ nghiệp lực của Trịnh Hạ Tường Sư Phụ như sau:
1. Đầu tiên khuyên dạy cách giải trừ oán thù.
Tôi tên (……………………………….), những oan gia trái chủ trên mình tôi (tức nghiệp lực, của một bộ phận nào trên thân thể) xin quý vị hãy nghe rõ, từ vô thủy kiếp đến nay, vì tôi bị mê hoặc trong thế giới Ta-bà, trong nhiều kiếp luân hồi, trong lúc vô ý đã làm tổn hại đến quý vị, khiến cho quý vị phải thọ vô lượng tội nghiệp trong lục đạo luân hồi, hứng chịu biết bao đau khổ, tăng thêm biết bao phiền não, Tôi thường cảm thấy tội chướng sâu nặng hối hận vô cùng. Tất cả đều do tôi mê hoặc vô tri tạo nên, đời này nhờ nguyện lực từ bi gia hộ của Phật, tôi được kết pháp duyên với Phật, tôi không quên quý vị, thành khẩn hi vọng quý vị cùng nhau học Phật, niệm Phật tu hành, tranh thủ sớm ngày tu thành chánh quả. Đồng thời hy vọng quý vị tha thứ cho tôi, đừng trả thù tôi, nếu quý vị nhất định muốn báo thù tôi, tôi cũng không có cách nào lẩn tránh, vì nhân đó là do tôi tạo ra, nên cũng phải chấp nhận quả báo, nhưng nếu như vậy đối với quý vị cũng không có lợi ích gì, chỉ khiến quý vị cảm thấy khoái lạc nhất thời, nhưng đến cùng quý vị không giải quyết được vấn đề căn bản, vì quý vị không những không tránh được sanh tử, cùng thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Tôi nhận thấy cách này tổn người lại không ích lợi gì cho chính mình, đối với hai bên chúng ta đều không tốt lành, vì vậy tôi thành khẩn hy vọng quý vị cùng tôi học Phật, niệm Phật hiệu A-mi-đà. Xin nghi nhớ chỉ cần quý vị thâu lại thân tâm, niệm thánh hiệu A-mi-đà, một niệm tương ưng, tu gì được nấy. Nhưng chúng tôi hy vọng quý vị đừng tu nhân thiên quả bảo, cố gắng tu tập, phát bồ đề tâm, nhất tâm chuyên niệm A-mi-đà Phật thánh hiệu, chỉ cần tu hành đúng pháp, tất nhiên đắc đạo tu thành chánh quả.
2. Quy y Tam Bảo cho oan gia trái chủ.
Tôi tên (……………………………), oan gia trái chủ trên thân tôi (tức nghiệp lực) quý vị hãy nghe rõ, quý vị không nghe Tam Bảo, không hiểu quy y, cho nên thọ khổ luân hồi. Nay tôi truyền thọ quy y Tam Bảo, quý vị phải lắng nghe, tôi niệm một lần, quý vị hãy theo tôi niệm một lần (phải niệm 3 lần):
Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Quy Y Phật, lưỡng túc tôn.
Quy Y Pháp, ly dục tôn,
Quy y Tăng, chúng trung tôn.
Quy Y Phật, không đọa địa ngục
Quy Y Pháp, không đọa ngạ quỷ
Quy Y Tăng, không đọa bàng sanh (súc sinh).
(Niệm 3 lần)
Lễ Quy Y viên mãn, bây giờ tôi vì quý vị niệm Thánh hiệu A-mi-đà Phật hai ngàn tiếng. Xin mời quý vị thâu lại thân tâm, cùng tôi chuyên tâm trì niệm Thánh hiệu A-mi-đà Phật.
3. Niệm xong thánh hiệu, vì oan gia trái chủ, tụng Tâm Kinh một lần.
Tâm Kinh:
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA
TÂM KINH BÁT NHÃ
Quán-Tự-Tại Bồ-Tát, hành thâm Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không,
không bất dị sắc; sắc tức thị
không, không tức thị sắc; Thọ,
tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư Pháp
không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố
không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới; vô vô-minh, diệc vô
vô-minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão
tử tận; vô khổ, tập, diệt,
đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-Đề
Tát-Đỏa y Bát-Nhã-Ba-La Mật-Đa cố tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố vô hữu khủng-bố; viễn ly điên-đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết-Bàn, Tam-thế chư Phật, y Bát-Nhã-Ba-La Mật-Đa cố đắc A-Nậu-Đa-La
Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề.
Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa,
thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa
chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế, Bồ-Đề
Tát bà ha.
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Dao
thiên ngọc lộ Giác hải kim ba
Đại
thiên sa giới sái phân đà
Tam
muội địch trần kha
Thiểu
thủy thành đa
Nhất
trích tịnh sơn hà.
|
(Xem thêm ý nghĩa TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
ĐA
để hiểu thêm)
4. Tụng xong tâm kinh, vì oan gia trái chủ, tụng chú vãng sanh 21 lần.
Thần chú vãng sanh Tịnh Độ
Vãng sanh
quyết định chơn ngôn
Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni.
Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni.
Nam mô A Di
Đa bà dạ.
Đa tha dà đa dạ,
Đa địa dạ tha.
A Di rị đô bà tỳ.
A Di rị đa tất đam bà tỳ.
A Di rịa đa, tì ca lan đế
A Di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị. Dà dà na
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (tụng lại 3 lần – 7 lần hoặc 21 lần)
Câu cuối có niệm:
Nam mô A Mi đà Phật. (3 lần)
5. Lời kết thúc:
Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A-Mi-đà hai ngàn tiếng, tụng tâm kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương thế giới Cực Lạc.
Nam Mô A-Mi-đà Phật. (3 lần)
Chú giải:
1. Nhất tâm chuyên niệm vạn đức hồng danh A-Mi-đà Phật, có thể tiêu tai chướng, phá mê khai ngộ, thuận đạt bờ giác.
2. Khi nghiệp lực hiện tiền, tu hành tinh tấn, nhức đầu, đau chân hoặc các bộ phận khác trên thân thể không khỏe, có thể dùng phương pháp này.
3. Trong lúc tu hành gặp chướng ngại, dùng phương pháp này, đừng dùng những văn hồi hướng khác, nên tụng Chú Vãng Sanh siêu độ cho họ vãng sanh, tức là hồi hướng cho họ rồi, phương pháp này linh nghiệm, xin quý đồng tu chứng nghiệm.
Đa tha dà đa dạ,
Đa địa dạ tha.
A Di rị đô bà tỳ.
A Di rị đa tất đam bà tỳ.
A Di rịa đa, tì ca lan đế
A Di rị đa tì ca lan đa
Dà di nị. Dà dà na
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (tụng lại 3 lần – 7 lần hoặc 21 lần)
Câu cuối có niệm:
Nam mô A Mi đà Phật. (3 lần)
5. Lời kết thúc:
Tất cả oan gia trái chủ trên thân tôi, lúc nãy tôi vừa quy y Tam Bảo cho quý vị, tụng niệm Phật hiệu A-Mi-đà hai ngàn tiếng, tụng tâm kinh một lần, tụng chú vãng sanh 21 lần. Những pháp ngữ này đều tặng cho quý vị, hy vọng quý vị đừng làm chướng ngại cho tôi, mau rời khỏi thân tôi, tìm một chỗ tốt lành mà tu hành, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, phá mê khai ngộ, minh tâm kiến tánh, lìa khổ được vui, vãng sanh Tây Phương thế giới Cực Lạc.
Nam Mô A-Mi-đà Phật. (3 lần)
Chú giải:
1. Nhất tâm chuyên niệm vạn đức hồng danh A-Mi-đà Phật, có thể tiêu tai chướng, phá mê khai ngộ, thuận đạt bờ giác.
2. Khi nghiệp lực hiện tiền, tu hành tinh tấn, nhức đầu, đau chân hoặc các bộ phận khác trên thân thể không khỏe, có thể dùng phương pháp này.
3. Trong lúc tu hành gặp chướng ngại, dùng phương pháp này, đừng dùng những văn hồi hướng khác, nên tụng Chú Vãng Sanh siêu độ cho họ vãng sanh, tức là hồi hướng cho họ rồi, phương pháp này linh nghiệm, xin quý đồng tu chứng nghiệm.
Tịnh Không Pháp sư
Nguyện đem công đức này
hồi hướng về khắp cả pháp giới,
đệ tử và chúng sinh
đồng sanh về cực lạc.
hồi hướng về khắp cả pháp giới,
đệ tử và chúng sinh
đồng sanh về cực lạc.
•PHÁT NGUYỆN
Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
•HỒI HƯỚNG
Nguyện
sanh Tây Phương tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ
Kệ
Hồi Hướng
Nguyện
dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc
-----------------
Nếu có chút công đức gì
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu ba đường khổ.
Nếu có ai thấy nghe, đều phát Bồ Đề tâm
Khi hết báo thân này, đồng sanh Cực Lạc Quốc!
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc
-----------------
Nếu có chút công đức gì
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu ba đường khổ.
Nếu có ai thấy nghe, đều phát Bồ Đề tâm
Khi hết báo thân này, đồng sanh Cực Lạc Quốc!
Tám
điều cần biết của Người Tu Tịnh Độ
1.
Thật vì sanh tử, phát Tâm Bồ Đề là con đường chung học đạo.
2.
Lấy tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật làm chính tông Tịnh Độ.
3.
Lấy nhiếp tâm chuyên chú mà niệm làm phương tiện hạ thủ.
4.
Lấy chiết phục phiền não hiện hành làm yếu vụ tu tâm.
5.
Lấy giữ vững bốn điều trọng giới làm căn bản nhập đạo.
6.
Lấy các thứ khổ hạnh làm trợ duyên tu đạo.
7.
Lấy nhất tâm bất loạn làm chỗ quy túc cho tịnh hạnh.
8.
Lấy các thứ điềm linh làm chứng nghiệm vãng sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét