Phật Thuyết Kinh A-di-đà
Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập đời Diêu Tần
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận
Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với đại Tỳ-kheo Tăng, 1.250 vị, đều là các bậc đại A-la-hán mà ai cũng quen biết. Như là:
- Trưởng lão Xá-lợi-phất,
- Ma-ha Mục-kiền-liên,
- Ma-ha Ca-diếp,
- Ma-ha Ca-chiên-diên,
- Ma-ha Câu-hy-la,
- Ly-bà-đa,
- Châu-lợi-bàn-đà-già,
- Nan-đà,
- A-nan-đà,
- La-hầu-la,
- Kiều-phạm-ba-đề,
- Tân-đầu-lô Phả-la-đọa,
- Ca-lưu-đà-di,
- Ma-ha Kiếp-tân-na,
- Bạc-câu-la,
- A-nậu-lâu-đà,
- và các đại đệ tử khác như vậy;
- Ma-ha Mục-kiền-liên,
- Ma-ha Ca-diếp,
- Ma-ha Ca-chiên-diên,
- Ma-ha Câu-hy-la,
- Ly-bà-đa,
- Châu-lợi-bàn-đà-già,
- Nan-đà,
- A-nan-đà,
- La-hầu-la,
- Kiều-phạm-ba-đề,
- Tân-đầu-lô Phả-la-đọa,
- Ca-lưu-đà-di,
- Ma-ha Kiếp-tân-na,
- Bạc-câu-la,
- A-nậu-lâu-đà,
- và các đại đệ tử khác như vậy;
Cùng chư Bồ-Tát Ma-ha-tát:
- Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử,
- A-dật-đa Bồ-Tát,
- Càn-đà-ha-đề Bồ-Tát,
- Thường Tinh Tấn Bồ-Tát,
- và các đại Bồ-Tát khác như thế;
- A-dật-đa Bồ-Tát,
- Càn-đà-ha-đề Bồ-Tát,
- Thường Tinh Tấn Bồ-Tát,
- và các đại Bồ-Tát khác như thế;
Cùng với Thích-đề Hoàn-nhân và vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.
Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất:
“Từ đây về hướng tây, vượt qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, trong cõi nước ấy có Đức Phật hiệu là A-di-đà, hiện đang thuyết Pháp ở đó.
Này Xá-lợi-phất! Vì sao cõi nước kia tên là Cực Lạc?
Chúng sanh trong cõi nước ấy, không có các khổ, chỉ thọ những điều an vui, cho nên gọi là Cực Lạc.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, đều do bốn thứ châu báu bao quanh giáp vòng, cho nên cõi nước đó tên là Cực Lạc.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ có ao bảy báu với nước tám công đức, tràn đầy trong ấy. Đáy ao dùng toàn là cát vàng để trải làm đất. Các bực thềm ở bốn phía đều do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có những lầu các, cũng do vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, dùng để trang sức.
Trong ao có hoa sen, to lớn như bánh xe, màu xanh tỏa ánh sáng xanh, màu vàng tỏa ánh sáng vàng, màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, màu trắng tỏa ánh sáng trắng, thơm khiết vi diệu.
Này Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia thường trỗi nhạc trời, vàng kim làm đất, ngày đêm sáu thời mưa hoa trời mạn-đà-la. Chúng sanh trong nước đó, thường vào buổi sáng sớm, lấy những túi vải đựng các thứ hoa vi diệu, đem cúng dường mười vạn ức Phật độ ở phương khác. Khi đến giờ thọ trai, họ liền trở về cõi nước mình, dùng cơm xong rồi đi kinh hành.
Này Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cõi nước đó thường có các loài chim với nhiều màu sắc, xinh đẹp lạ thường như: bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, và chim cộng mạng. Những loài chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên âm thanh hòa nhã; tiếng ấy diễn sướng: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ-đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, và các Pháp như vậy. Khi chúng sanh ở cõi nước đó nghe được thanh âm này, họ thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Này Xá-lợi-phất! Ông chớ cho rằng các loài chim này thật là do tội báo mà sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước Phật kia không có ba ác đạo.
Này Xá-lợi-phất! Ở cõi nước Phật kia, ngay cả tên của ba ác đạo còn không có, hà huống lại có thật. Những loài chim ấy đều do Đức Phật A-di-đà vì muốn cho Pháp âm tuyên lưu mà biến hóa ra như thế.
Này Xá-lợi-phất! Ở cõi nước Phật kia, gió thổi nhẹ làm lay động các hàng cây báu và màn lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu như trăm ngàn thứ nhạc đồng thời trỗi lên. Những ai nghe tiếng ấy rồi đều sẽ tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Này Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ thế nào? Đức Phật đó vì sao hiệu là A-di-đà?
Này Xá-lợi-phất! Đức Phật đó có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cõi nước mười phương, không bị chướng ngại, thế nên hiệu là A-di-đà.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thọ mạng của Đức Phật kia và nhân dân của Ngài dài vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, thế nên gọi là A-di-đà.
Này Xá-lợi-phất! Đức Phật A-di-đà từ khi thành Phật cho đến nay đã được mười kiếp.
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đức Phật đó có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn, đều là những vị A-la-hán, không thể dùng toán số mà biết được, còn chư Bồ-Tát thì cũng nhiều như vậy.
Này Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!
Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Chúng sanh được sinh về cõi nước Cực Lạc đều là những vị bất thối chuyển. Trong đó có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất đông, không thể dùng toán số mà biết được, chỉ có thể nói là nhiều vô lượng vô biên a-tăng-kỳ.
Này Xá-lợi-phất! Chúng sanh nào nghe được những điều này nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi nước kia. Tại sao thế? Vì sẽ được câu hội một nơi với các bậc thượng thiện nhân.
Này Xá-lợi-phất! Không thể chỉ có chút thiện căn và phước đức nhân duyên mà được sanh về nước kia đâu.
Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe nói về Phật A-di-đà và chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không tán loạn. Người ấy đến lúc lâm chung, Đức Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra ở trước mặt. Khi người này mạng chung, tâm không điên đảo, liền đắc vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
Này Xá-lợi-phất! Vì Ta thấy được sự lợi ích như thế nên mới nói điều ấy. Nếu có chúng sanh nào nghe được những lời nói đây, nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Này Xá-lợi-phất! Như Ta hôm nay khen ngợi về sự lợi ích không thể nghĩ bàn công đức của Phật A-di-đà, thì ở phương đông cũng có A-súc-bệ Phật, Tu-di Tướng Phật, Đại Tu-di Phật, Tu-di Quang Phật, Diệu Âm Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ở thế giới phương nam có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu-di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ở thế giới phương tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ở thế giới phương bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ở thế giới phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt-ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ở thế giới phương trên có Phạm Âm Phật, Túc Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa-la Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu-di Sơn Phật, Hằng Hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mà nói lời thành thật như vầy:
‘Tất cả chúng sanh đều nên tin nhận và ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.’
Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ thế nào? Tại sao gọi là Kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm?
Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào, nghe Kinh này và thọ trì, cùng nghe được danh hiệu của các Đức Phật, thì những thiện nam tử thiện nữ nhân ấy, đều sẽ được tất cả chư Phật hộ niệm và đều được bất thối chuyển nơi Đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vì thế, này Xá-lợi-phất! Các ông đều nên tin nhận lời Ta và lời của chư Phật nói.
Này Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi nước của Phật A-di-đà, thì những người ấy, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh về cõi nước kia, đều được bất thối chuyển nơi Đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vì thế, này Xá-lợi-phất! Trong các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu có ai tín thọ, hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
Này Xá-lợi-phất! Như Ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Đức Phật đó cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời như vầy:
‘Thích-ca-mâu-ni Phật đã làm được những việc rất khó và hiếm có, có thể ở cõi Ta-bà, trong đời ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và vì các chúng sanh nói Pháp mà tất cả thế gian đều khó tin.’
Này Xá-lợi-phất! Ông nên biết, Ta ở trong đời ác năm trược, làm những việc khó làm, đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và vì hết thảy thế gian mà nói Pháp khó tin này, thật là rất khó!”
Khi Phật thuyết Kinh này xong, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả trời, người, a-tu-la trong thế gian, sau khi nghe Phật nói, đều hoan hỷ tín thọ, đảnh lễ rồi cáo lui.
Phật Thuyết Kinh A-di-đà
Dịch xong ngày 10 Tháng Giêng, 2010 – PL. 2634
Hiệu đính ngày 2 Tháng Chạp, 2011 – PL. 2635
Hiệu đính ngày 2 Tháng Chạp, 2011 – PL. 2635
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét