Diễn Đọc Chú Đại Bi - Reading the Great Compassion Mantra
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam, đồng nữ nào muốn thọ trì đọc tụng và đối với các chúng sanh khởi lòng từ bi, thì trước tiên nên theo con phát thệ nguyện như vầy:
'Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng biết tất cả pháp.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đắc trí tuệ nhãn.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng độ các chúng sanh.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được thiện phương tiện
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng ngồi thuyền Bát-nhã.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm vượt ra biển khổ.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng đắc Giới Định Đạo
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm lên núi Niết-bàn.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con chóng vào nhà Vô Vi.
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đồng thân Pháp tánh.
Nếu con hướng núi đao, núi đao tự gãy nát.
Nếu con hướng dầu sôi, dầu sôi tự khô cạn.
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu tan.
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự no đủ.
Nếu con hướng tu-la, ác tâm tự điều phục.
Nếu con hướng súc sanh, chúng đắc đại trí tuệ.'
Khi phát nguyện ấy xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu con và cũng như chuyên niệm Đức Bổn Sư của con là Đức Phật A-di-đà. Kế đó mới tụng thần chú Đà-la-ni này. Như mỗi đêm tụng đủ năm biến thời sẽ diệt trừ trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử trọng tội."
--------------------------------------------------------------------------------
Tất Cả Sở Cầu Đều Được Như Ý
--------------------------------------------------------------------------------
Quán Thế Âm Bồ-Tát lại bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn!
Nếu hàng trời người trì tụng Đại Bi chương cú, thì lúc gần mạng chung, mười phương chư Phật đều đến và cầm tay hành giả, như muốn vãng sanh ở Phật độ nào thời tùy theo sở nguyện đều đắc vãng sanh."
Lại bạch với Đức Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn!
Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như bị đọa vào tam ác đạo, con nguyện sẽ không thành chánh giác.
Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như chẳng sanh ở quốc độ chư Phật, con nguyện sẽ không thành chánh giác.
Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như chẳng được vô lượng tam-muội và biện tài, con nguyện sẽ không thành chánh giác.
Nếu chúng sanh nào trì tụng Đại Bi Thần Chú, như tất cả sở cầu đều chẳng được toại ý trong đời hiện tại, thì thần chú này không gọi là Đại Bi Tâm Đà-la-ni--duy trừ bất thiện và không chí thành.
Nếu người nữ nào nhàm chán nữ thân và muốn thành thân nam tử, họ trì tụng Đại Bi Đà-la-ni chương cú, như đời sau chẳng chuyển thân nữ thành thân nam, con nguyện sẽ không thành chánh giác. Giả sử dù sanh một chút lòng nghi thì sẽ không được toại.
Nếu chúng sanh nào xâm chiếm cùng hao tổn tài vật và thức ăn nước uống của Thường Trụ, dù 1.000 Đức Phật xuất thế thì họ cũng chẳng có cơ hội sám hối. Dẫu cho có sám hối thời cũng chẳng diệt trừ. Nhưng nay, khi họ trì tụng Đại Bi Thần Chú, tội ấy liền tiêu tan.
Nếu có người nào xâm chiếm cùng hao tổn tài vật và thức ăn nước uống của Thường Trụ, phải nên đối với mười phương chư Đạo sư sám hối thời mới diệt trừ. Nhưng nay, khi họ trì tụng Đại Bi Đà-la-ni, thì thập phương chư Phật liền đến chứng minh. Hết thảy tội chướng đều sẽ diệt tiêu.
Tất cả ác nghiệp trọng tội như: mười điều ác, năm tội ngỗ nghịch, nhục mạ người khác, hủy báng Pháp, phạm trai phá giới, hủy hoại chùa tháp, trộm cắp đồ vật của chư Tăng, và làm ô uế người tu Phạm hạnh. Hết thảy đều sẽ diệt tận. Duy trừ một việc, đó là với thần chú này sanh lòng nghi, thì thậm chí tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng chẳng được diệt mất, hà huống là trọng tội. Mặc dù trọng tội tuy không lập tức diệt trừ nhưng họ vẫn có thể tạo nhân Bồ-đề về sau."
--------------------------------------------------------------------------------
15 Loại Thiện Sanh và 15 Loại Chết Xấu
--------------------------------------------------------------------------------
Lại bạch cùng Đức Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Nếu hàng trời người trì tụng Đại Bi Tâm Chú thời sẽ được 15 loại thiện sanh và không thọ 15 loại chết xấu. Những thứ chết xấu đó là:
1. Không chết do đói khát khốn khổ.
2. Không chết do đánh đập lao tù.
3. Không chết do oan gia kẻ thù.
4. Không chết do quân trận tương tàn.
5. Không chết do cọp sói ác thú.
6. Không chết do rắn độc bò cạp.
7. Không chết do nước dìm lửa đốt.
8. Không chết do trúng phải thuốc độc.
9. Không chết do trúng ngải làm hại.
10. Không chết do điên cuồng loạn trí.
11. Không chết do núi lở cây ngã.
12. Không chết do ác nhân trù ếm.
13. Không chết do tà thần ác quỷ.
14. Không chết do ác bệnh ngặt nghèo.
15. Không chết do tự sát tự tử.
Phàm ai trì tụng Đại Bi Thần Chú thì sẽ không bị 15 loại chết xấu và sẽ được 15 loại thiện sanh, như là:
1. Mọi nơi sinh ra thường có bậc hiền quân.
2. Thường sanh ở nước lành.
3. Thường gặp thời đại tốt.
4. Thường gặp bậc thiện hữu.
5. Các căn luôn đầy đủ.
6. Đạo tâm thuần thục.
7. Không phạm cấm giới.
8. Quyến thuộc có ân nghĩa và hòa thuận.
9. Tài vật ẩm thực luôn phong phú.
10. Luôn được người khác cung kính trợ giúp.
11. Tài bảo của họ chẳng bị người cướp đoạt.
12. Mọi sự cầu mong đều được toại ý.
13. Trời rồng thiện thần thường luôn hộ vệ.
14. Mọi nơi sinh ra đều thấy Phật nghe Pháp.
15. Khi nghe Chánh Pháp liền liễu ngộ thậm thâm nghĩa.
Nếu có người trì tụng Đại Bi Thần Chú thời sẽ được 15 loại thiện sanh như vậy. Tất cả trời người thường nên tụng trì và chớ sanh biếng lười."
--------------------------------------------------------------------------------
Đức Quán Thế Âm Tuyên Thuyết Đại Bi Chú
--------------------------------------------------------------------------------
Khi Quán Thế Âm Bồ-Tát ở trước chúng hội nói lời ấy xong, ngài chắp tay đứng thẳng và đối với chúng sanh khởi đại bi tâm. Trên khuông mặt mỉm cười và liền thuyết thần diệu chương cú Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni như vầy:
"[1] nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
[2] nam mô a rị da
[3] bà lô yết đế thước bát ra da
[4] bồ đề tát đỏa bà da
[5] ma ha tát đỏa bà da
[6] ma ha ca lô ni ca da
[7] án
[8] tát bàn ra phạt duệ
[9] số đát na đát tỏa
[10] nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
[11] bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
[12] nam mô na ra cẩn trì
[13] hê rị ma ha bàn đa sa mế
[14] tát bà a tha đậu du bằng
[15] a thệ dựng
[16] tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già
[17] ma phạt đặc đậu
[18] đát điệt tha
[19] án a bà lô hê
[20] lô ca đế
[21] ca ra đế
[22] di hê rị
[23] ma ha bồ đề tát đỏa
[24] tát bà tát bà
[25] ma la ma la
[26] ma hê ma hê rị đà dựng
[27] cu lô cu lô yết mông
[28] độ lô độ lô phạt xà da đế
[29] ma ha phạt xà da đế
[30] đà ra đà ra
[31] địa rị ni
[32] thất phật ra da
[33] giá la giá la
[34] mạ mạ phạt ma la
[35] mục đế lệ
[36] y hê y hê
[37] thất na thất na
[38] a ra sâm phật ra xá rị
[39] phạt sa phạt sâm
[40] phật ra xá da
[41] hô lô hô lô ma ra
[42] hô lô hô lô hê rị
[43] ta ra ta ra
[44] tất rị tất rị
[45] tô rô tô rô
[46] bồ đề dạ bồ đề dạ
[47] bồ đà dạ bồ đà dạ
[48] di đế rị dạ
[49] na ra cẩn trì
[50] địa rị sắt ni na
[51] bà dạ ma na
[52] ta bà ha
[53] tất đà dạ
[54] ta bà ha
[55] ma ha tất đà dạ
[56] ta bà ha
[57] tất đà du nghệ
[58] thất bàn ra dạ
[59] ta bà ha
[60] na ra cẩn trì
[61] ta bà ha
[62] ma ra na ra
[63] ta bà ha
[64] tất ra tăng a mục khư da
[65] ta bà ha
[66] ta bà ma ha a tất đà dạ
[67] ta bà ha
[68] giả kiết ra a tất đà dạ
[69] ta bà ha
[70] ba đà ma yết tất đà dạ
[71] ta bà ha
[72] na ra cẩn trì bàn già la dạ
[73] ta bà ha
[74] ma bà rị thắng yết ra dạ
[75] ta bà ha
[76] nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
[77] nam mô a rị da
[78] bà lô kiết đế
[79] thước bàn ra dạ
[80] ta bà ha
[81] án tất điện đô
[82] mạn đa ra
[83] bạt đà dạ
[84] ta bà ha"
|| namo ratnatrayāya | nama āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya mahāsattvāya mahākāruṇikāya | oṃ sarva raviye sudhanadasya | nama skṛtvā imaṃ āryāvalokiteśvara raṃdhava | namo narakindi hrīḥ mahāvatsvāme sarva arthāto śubhaṃ | ajeyaṃ sarva sat nama vaṣaṭ namo vāka mavitato | tadyathā oṃ avaloki lokate krate e hrīḥ mahābodhisattva | sarva sarva | mala mala | mahima hṛdayaṃ | kuru kuru karmaṃ | dhuru dhuru vijayate mahāvijayate | dhara dhara | dhṛnī śvarāya | cala cala mama vimala muktele | ehi ehi | śina śina | ārṣaṃ prasari viśva viśvaṃ prasaya | hulu hulu mara | hulu hulu hrīḥ | sara sara | siri siri | suru suru | bodhiya bodhiya | bodhaya bodhaya | maitreya narakindi dhṛṣṇina bhayamana svāhā | siddhāya svāhā mahāsiddhāya svāhā | siddhayoge | śvarāya svāhā | narakindi svāhā | māraṇara svāhā | śira siṃha mukhāya svāhā | sarva mahā-asiddhāya svāhā | cakra asiddhāya svāhā | padma kastāya svāhā | narakindi vagalāya svāhā | mavari śaṅkharāya svāhā | namo ratnatrayāya | nama āryāvalokiteśvarāya svāhā | oṃ sidhyantu mantra padāya svāhā ||
Khi Quán Thế Âm tuyên thuyết thần chú này xong, đại địa chấn động sáu cách. Trời mưa hoa báu rải xuống rực rỡ. Hết thảy mười phương chư Phật đều hoan hỷ, còn thiên ma ngoại đạo khiếp sợ đến lông tóc dựng đứng. Tất cả chúng hội đều được chứng quả. Có vị đắc quả Tu-đà-hoàn. Có vị đắc quả Tư-đà-hàm. Có vị đắc quả A-na-hàm. Có vị đắc Đạo A-la-hán. Hoặc có vị đắc Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, và nhẫn đến Thập Địa. Vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét