Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH (BẢN VI * ANH PHƯƠNG 1960?)

BẢN VI * ANH PHƯƠNG 1960? 


[Chỉ thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng ký... 

 

SẤM TRẠNG TRìNH
Hoàng Xuân sưu tập
Anh Phương Saigon, 1960?
tr.29-58

SẤM TRẠNG TRÌNH
THỜI TẬP, của VIÊN LINH
SAIGON, 1973-1975.


CẢM ĐỀ
1.Thanh nhàn vô sự là tiên,
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi.
Cơ tạo hóa,
Phép đổi dời,
Ðầu non mây khói tỏa,
Mặt nước cánh buồm trôi.
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.
Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời.
Dở hay nên tự lòng người cả,
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
14. Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KÝ
1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Tự Ðinh, Lê, Lý, Trần thưở trước.
Ðã bao lần ngôi nước đổi thay,
Núi sông thiên định đặt bày,
Ðồ thư một quyển xem nay mới rành.


Hòa đao mộc lạc, (1)
Thập bát tử thành,(2)
Ðông A nhật xuất, (3)
10. Dị mộc tái sinh.(4)
Chấn cung xuất nhật,(5)
Ðoài cung vẩn tinh.(6)
Phụ nguyên chì thống, (7)
Ðế phế vi đinh. (8)
15.Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.(9).

Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
Hòa đao mộc hồi dương sống lại,
20.Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương, (10)
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
Lê tồn Trịnh tại,
Trịnh bại Lê vong.
25.Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.(11)
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Chim bằng cất cánh về đâu ?
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công (12)
Bao giờ trúc mọc qua sông, (13)
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Ðoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
35.Ðầu cha lộn xuống thân con,(14)
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, (15)
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chinh chích u mê,
40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.(16)
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.
Gia đình một ở ba đi dần dần.
45.Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gởi nơi đâu chuyến này.
Kìa kìa gió thổi lá rung cây, (17)
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.
Tan tác Kiến kiều An đất nước.
50.Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.
Lâm giang nổi sóng mù Thao cát,
Hưng địa tràn dâng Hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái ?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.

55.Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.(18)
Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. (19)
Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
60.Rắn mới hai đầu khó chịu thay.

Ngựa đã gác yên không người cỡi,
Dê khôn ăn lộc ngoảnh về Tây.
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay,
65.Chó nọ vẩy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hào biết đấy mới ngoan,
Chữ rằng lục thất nguyệt gian,
70.Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ra tay điều đỉnh hộ mai,
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
75.Phá điền than đến đàn dê,
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng,
Dê đi dê lại tuồn luồn.
Ðàn đi nó cũng một môn phù trì.
Thương những kẻ nam nhi chí cả,
80.Chớ vội sang tất tả chạy rong,
Học cho biết chữ cát hung,
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.
Hể trời sinh xuống phải thì,
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
85.Kìa những kẻ vội lòng phú quí,
Xem trong mình một tí đều không.
Ví dù có gặp ngư ông,
Lưới giăng đâu dể nên công mà hòng.
Khuyên những đấng thời trung quân tử,
90.Lòng trung nghi nên giữ cho minh.
Âm dương cơ ngẩu hộ sinh,
Thái nhâm, thái ất mình cho hay..
Chớ vật vờ quen loài ong kiến,
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

95." Ô hô thế sự tự bình bồng,(20)
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "

Ngõ may gặp hội mây rồng,
Công danh rạng rở chép trong vân đài
105.Nước Nam thường có thánh tài,
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
So mấy lề để tàng kim quỹ,
Kể sau này ngu bỉ được coi,
Ðôi phen đất lở cát bồi,
110.Ðó đây ong kiến dậy trời quỷ ma.
Ba con đổi lấy một cha,
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,
Ðợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.

115.Hoành sơn nhất đái,(21)
Vạn đại dung thân.
Ðến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.

Thiên sinh hữu nhất anh hùng,(22)
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa,
Ai mà tìm thấy mới là thần minh.
125.Uy nghi dung mạo khác hình,
Thác cư một góc kim tinh phương Ðoài.
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi,
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.
Binh thư mấy quyển kinh luân,
130.Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu.
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh,
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai.
Song thiên nhật nguyệt sáng soi,
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường,
135.Thông minh kim cổ khác thường,
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài.
Ðấng hiên ngang nào ai biết trước,
Tài thao lược yêm bác vũ văn.
Ai còn khoe trí khoe năng,
140.Cấm kia bắt nọ hung hăng với người,
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,(23).
Chốc lại mồng gá vạ cho dân.
Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
145.Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức này quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thưở hung hoang,
150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,(24)
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
155.Nực cười những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe.
Lại còn áo mũ xum xoe,
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Ghê thay thau lẫn với vàng,
160.Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.
Thành ra tuyết tán mây tan,
Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
Can qua việc nước tơi bời,
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.
165.Oai phong khấp quỷ kinh thần,
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.
Rừng xanh núi đỏ bao la,
Ðông tàn Tây bại sang gà mới yên.
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,
170.Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,(25)
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
175.Sự đời tính đã phân minh,
Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau :
Ðầu thu gà gáy xôn xao,
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông,
180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.(26)
Lợn kêu tình thế lâm nguy.
Quỷ dương chết giữa đường đi trên trời..
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi,
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra.
185.Hùm gầm khắp nẻo gần xa.
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời,
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,
190.Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Chín con rồng lộn khắp nơi,
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.
Lời truyền để lại bấy nhiêu,
Phương Ðoài giặc đã đến chiều bại vong.
195.Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,
Ðến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
Ðầu can võ tướng ra binh,
Ắt là trăm họ thái bình âu ca.
Thần Kinh Thái Ất suy ra,
200.Ðể giành con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngày thường xem thấy quyển vàng,
Của thiên bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thưở sấm trời vô giá thập phân.

205.Kể từ đời Lạc Long Quân,
Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian. (27)
Mỗi đời có một tội ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình.
Phú quí hồng trần mộng,
210.Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả giục nhân canh.

Bắc hữu Kim thành tráng.(28)
Nam hữu Ngọc bích thành,
215.Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh,
Bảo giang thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Rồi đây mới biết thánh minh,
220.Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Nhị hà một dải quanh co,
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào.
Khắp hòa thiên hạ nao nao.
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
225.Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,
Ðám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu,
Bây giờ phép ấy để lâu không hào..

Cũng có kẻ non trèo biển lội, (29)
230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh.
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.

235.Phùng thời nay hội thái lai,
Can qua chiến trận để người thưởng công.
Trẻ già được biết sự lòng,
Ghi làm một bản để hòng dở xem.
Ðời này những thánh cùng tiên,
240.Sinh những người hiền trị nước an dân.
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại,
Chó còn nằm đầu khải cuối thu.
Khuyên ai sớm biết khuông phù,
Giúp cho thiên hạ Ðường, Ngu ngõ hầu
245.Cơ tạo hóa phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào,
248.Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

[Chỉ thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng ký...
____
SƠN TRUNG
sưu tập, hiệu đính và chú thích,
Bài này được truyền tụng nhiều, là bản A của trường Viễn Đông Bác cổ nay là Thư Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội. Tôi chưa xem bản chữ nôm cho nên không rõ bản này có từ đời nào và so với bản quốc ngữ có khác nhau không. Và bản quốc có do ai bịa ra đọan nào, chữ nào không.
Tại Sài gòn có bản in của Hoàng Xuân sưu tập, Anh Phương xuất bản trong khoảng 1960, và Thời Tập. Không biết trước đó có bản quốc ngữ nào không?


(1). Đao: chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
(2). Thập bát tử: họ Lý 李 nối ngôi
(3). Đông A là nhà Trần 陳. Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
(4). Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.
(5).Chấn cung xuất nhật: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
(6).Đoài cung vẩn tinh: tinh 晶 là sao (tinh có ba chữ nhật) chỉhọ Trịnh鄭 vì chữ Trịnh có chữ nhật.
(7).Phụ nguyên chì thống: Nhà Nguyễn lên ngôi.
(8).Ðế phế vi đinh: Năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị trước áp lực của cộng sản.
(9).Thập niên dư chiến/Thiên hạ cửu bình: Pháp việt chiến tranh từ 1945 đến 1954 thì hiệp định Geneve chấm dứt chiến tranh.

Từ câu 1 đến 16 là nói tổng quát, sau đó là nói rõ từng thời kỳ. Bắt đầu nói về nhà hậu Lê của Lê Lợi. Đời Lê mạt, chiến tranh liên miên.
(10). Biện lại vi vương: Nguyễn Nhạc làm biện lại: Nhà Tậy Sơn nổi lên, chiến tranh liên miên.
(11). Lê tồn Trịnh tại,
Trịnh bại Lê vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

Trịnh Khải bị Tây Sơn giết, họ Trịnh mất thì nhà Lê cũng mất theo. Khi Trịnh Khải xuất bôn, qua làng Vĩnh Lại, kêu gọi cần vương, những ai giúp công giúp của đều được ban quận công cho nên cả làng Vĩnh Lại được phong quận công.
Cũng có thuyết nói rằng nguyên làng Vĩnh Lại là nơi quê nhà của Trạng Trình. Dân chúng ở Vĩnh Lại, thấy thiên hạ đồn đại ông là người tiên tri biết trước được mọi việc sẽ xẩy ra, liền yêu cầu ông đoán cho biết tương lai của dân chúng ở Vĩnh Lại. Trạng Trình chỉ nói xa nói gần mà không chịu nói rõ, viện cớ là: “Thiên cơ bất khả lậu” . Ông liền cho đắp một con ngựa đá đặt ở bên bờ sông làng Vĩnh Lại . Lâu ngày đất cát bồi thành, giống in như con ngựa đá sang sông thật. Trạng Trình lại cho khắc vào mình ngựa hai câu sấm trên . Dân chúng ở Vĩnh Lại đọc được hai câu sấm truyền và thấy ngựa đá sang bờ sông Vĩnh Lại rất vui mừng, cho rằng hồng phúc đã đến cho dân làng . Và ngày ngày mong đợi sự ứng nghiệm .

Về sau, khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn, trốn qua làng Vĩnh Lại, dân chúng đều một lòng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn. Vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình, liền phong tước Hầu cho người cầm đầu nhóm dân làng . Tin ấy truyền ra, dân chúng tranh nhau xin nhà vua phong tước Hầu cho mình . Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc có hại cho mình, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng . Vua Lê Chiêu Thống trú ngụ tại làng Vĩnh Lại một thời gian, nhận thấy không thể nhờ dân làng mà khôi phục nghiệp cả được, liền bỏ trốn sang Tầu với các thuộc hạ để cầu viện binh với vua nhà Thanh . Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm nghe tin vua Lê trốn tại làng Vĩnh Lại đến bắt, nhưng chậm mất . Biết được dân làng Vĩnh Lại chống Tây Sơn nên được tước Hầu, liền hạ lịnh cho binh sĩ giết hại dân làng rất nhiều . Dân làng Vĩnh Lại vì khát vọng công danh nên thiệt mạng oan uổng.

(12).Chim bằng cất cánh về đâu ?
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công .
Nói việc Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết.
(13). Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam . Khi đến Thăng Long , Sĩ Nghị cho quân bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng Hà .

(14). Ðầu cha lộn xuống thân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Nói về nhà Tây Sơn vì vua Quang Trung , chữ Quang có chữ tiểu trên đầu光 nhưng đến con là Cảnh Thịnh, chữ Cảnh景 có ba nét của chữ tiểu nằm dưới. Nhà Tây Sơn tồn tại trong 14 năm kể từ 1788 là năm Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đến năm 1802 nhà Tây Sơn bị diệt vong, Nguyễn Ánh lên ngôi. Nếu kể từ năm tân mão (1771), Tây Sơn khởi nghĩa cho đến 1802 thì 31 năm.


(15).Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, 
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Nguyễn Ánh tin vào Pháp ( người Tây dương, dương là bể, dương cũng đồng âm với dương là dê , dê chỉ người Pháp) cho nên sau mất nước vào tay Pháp.

(16). Dục lòng chinh chích u mê,
40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.
Gia đình một ở ba đi dần dần.

Nói vua Tự Đức 嗣德 ( thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm là chữ 德 chỉ vua Tự Đức) để cho Pháp
( bạch quỷ) xâm chiếm Việt Nam. Sự thật thì ta yếu địch mạnh phải thua mặc dù vua quan đã hết sức chiến đấu. Gia đình một ở ba đi dần dần là nói việc sau khi vua Tự Đức băng, ba vị vua nói tiếp bị phế và bị giết là Dực Đức, Hiệp Hòa, và Kiến Phúc . Vua Hàm Nghi lên ngôi sau chống Pháp bị đày.
(17). Câu 47-54
Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.
. . . . . . . . . .
Một ngựa một yên ai sùng bái ?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.
Nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa và VNQĐ bị tàn sát.


(18).Tiền ma bạc quỷ trao tay,
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua..
Cộng sản nổi dậy năm 1930 tại Nghệ An ( Sô Viết Nghệ Tĩnh)
(19).Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
Đầu năm 1934, âm lịch có hai tháng bảy thành ra có 13 tháng, Toàn quyền Pasquier ( Bát Kê :Tám Gà) bị cháy máy bay mà chết.

(20)." Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

Bài thơ này quả là tiên tri, những việc trong này chỉ xảy ra sau 1960.
Bao giờ đường sắt được thông thương?
Sau 1945, cộng sản phá cầu đường, thiết lộ bị phá hủy. Sau 1954, miền Nam khôi phục xe lửa trong Nam. Mãi đến sau 1975, đường săt mới thông suốt.
Lúc này thì Hồ Chí Minh (1890 – 1969) đã chết mà Mao Trạch Đông (1893 – 1976 ) cũng không còn (Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch).Lúc này cũng xảy ra cuộc hải chiến ở Trường Sa, Hoàng Sa giữa quân Trung Cộng và VNCH (Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng). Hoặc sắp tới có hải chiến tại biển Đông? Và Mỹ Trung Cộng sẽ đánh nhau ( Ưng lai sư tử thượng: Ưng là Mỹ, Sư tử: Trung Quốc), lúc đó Việt Nam và thế giới mới hòa bình.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

21.Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân.
Ðến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Hoành sơn nhất đái nói về họ Nguyễn xưng vương xưng đế nhưng đến thời cộng sản ( vô quân) thì họ Nguyễn cáo chung. Thậy vậy, năm ất dậu (1945), vua Bảo Đại thoái vị.

(22).Thiên sinh hữu nhất anh hùng,
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa...
Nhiều bản nói về căn cứ Thái Nguyên. Bản Mai Lĩnh viết:
Đoài phương thực có chân nhân,
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn, được nơi,
Thái Nguyên một giải làm nơi trú đình ( 231-234)
Thái Nguyên là nơi núi rừng, nhưng cũng là nơi quần anh tụ họp. Anh em Vũ Văn Mật đời Mạc đã xây căn cứ nơi đây. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Hoàng Hoa Thám đã chiến đấu nơi đây. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng hợp tác với Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Phục Quốc hội cùng lập chiến khu nơi đây. Năm 1917, Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến khởi binh chống Pháp tại đây. Khoảng 1944, Trần Trung Lập đem quân chống Pháp tại L:ạng Sơn và vùng này sau bị Pháp Nhật liên thủ tiêu diệt. Sau cùng là Hồ Chí Minh..Ông cùng Võ NGuyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng ăn nằm ở nhà bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Hanh Long. Thế mà trong CCRĐ, bọn Hồ Chí Minh đã giết bà, khiến con trai bà, chính trị viên trung đoàn và một số cán bộ, binh sĩ đã tức giận sự phản bội của cộng sản mà tự tử. Những nhà cách mạng trên đúng là quần tiên, còn Hồ Chí Minh là quỷ vương. Ông theo Liên Xô, Trung Quốc, lấy Bắc Kinh là thủ đô của Việt Nam và thế giới cộng sản.


(23).Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức này quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thưở hung hoang,
150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.
Ông Hồ xảo quyệt đa mưu diệu kế song tàn ác, và chế độ do ông thiết lập rất dã man khắc nghiệt hơn quân chủ và phong kiến khiến dân khốn khổ.

(24). Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
Hiệp định Geneve 1954 cho phép cộng sản được nửa nước. Năm mậu ngọ (1954) quân Hồ Chí Minh vào Hà Nội.
Câu này thì bản Mai Lĩnh năm 1939 cũng có.
(25). Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,(25)
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
Năm kỷ dậu (1945) dứt đệ nhị thế chiến, thế giới hòa bình.
(26).Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông,
180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.
Năm canh tuất (1946), Bảo Đại Trung Quốc rồi qua Pháp. Năm 1947, bà Nam Phương và các con qua Pháp.
(27). Lục thất: lục 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Nhà Nguyễn.
(28). Bắc hữu Kim thành tráng.(28)
Nam hữu Ngọc bích thành,
215.Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh,
Sau 1954, nước ta chia hai,có hai thủ đô là Hà Nội và Sài Gòn, một cái là thành vàng, một cái là thành ngọc. Nhưng hai nước vẫn tiếp tục chiến tranh.

(29).Cũng có kẻ non trèo biển lội, 
230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh.
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai,
Sau này, có kẻ đã vượt biên sang ở Mỹ, Pháp, Canada, Úc. .. sẽ trở về cứu nước, được dân chúng ủng hộ để lập một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ thật sự như đời Đường Ngu là thời đại hoàng kim ngày xưa..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét